Mảng xơ vữa hình thành và ngăn chặn dòng chảy của mạch máu khiến máu khó lưu thông đi các cơ quan trong cơ thể. Vậy mảng xơ vữa thường gặp ở đâu là câu hỏi của nhiều người. Mảng xơ vữa thường xuất hiện tại 3 vị trí chính là động mạch vành, động mạch cảnh và động mạch ngoại biên. Hệ thống động mạch vành. Động mạch vành cung cấp máu giàu oxy nuôi cơ tim. Dưới đây chúng ta cùng đi tìm hiểu chi tiết.
1. Mảng xơ vữa thường gặp ở đâu?
Mảng xơ vữa được tạo thành từ chất béo, cholesterol, canxi và các chất khác được tìm thấy trong máu. Theo thời gian, mảng xơ vữa cứng lại và làm hẹp động mạch, hạn chế dòng chảy của máu chứa oxy đến các cơ quan và các bộ phận khác trong cơ thể. Bệnh xơ vữa động mạch có thể dẫn đến các vấn đề nghiêm trọng bao gồm nhồi máu cơ tim, đột quỵ hoặc thậm chí là tử vong.
Mảng xơ vữa thường xuất hiện tại 3 vị trí chính là động mạch vành, động mạch cảnh và động mạch ngoại biên.
+ Xơ vữa động mạch vành:
Xơ vữa động mạch là tình trạng thành mạch bị xơ cứng kèm thu hẹp lòng mạch do các mảng xơ vữa làm dòng máu lưu thông hạn chế, gây thiếu máu nuôi đến cơ quan. Nếu tình trạng này xảy ra tại mạch máu nuôi tim thì được gọi là xơ vữa động mạch vành. Khi mạch máu bị tắc hẹp ở cơ quan nào thì có biểu hiện thiếu máu cục bộ tại cơ quan đó. Đối với tổn thương động mạch tại tim sẽ gây nhồi máu cơ tim hay bệnh tim thiếu máu cục bộ, lâu dài sẽ gây suy tim. Lúc này, bệnh nhân sẽ có cảm giác mệt mỏi, khó thở khi gắng sức, lâu ngày tiến triển thành khó thở liên tục, khó thở khi nằm đầu thấp, phù chân, tiểu ít. Khi xơ vữa động mạch vành đến giai đoạn này là lúc bệnh đã trở nặng, suy giảm chất lượng cuộc sống.
+ Xơ vữa động mạch cảnh:
Ðộng mạch cảnh gồm động mạch cảnh chung, động mạch cảnh trong, động mạch cảnh ngoài. Động mạch cảnh trong là động mạch cấp máu cho các cơ quan trong hộp sọ, ổ mắt và da đầu vùng trán. Ðộng mạch cảnh ngoài là động mạch cấp máu chủ yếu cho các cơ quan ở đầu mặt cổ bên ngoài hộp sọ.
Sự hình thành các mảng xơ vữa do tích tụ cholesterol trong thành động mạch cảnh thường tiến triển trong thời gian dài, có thể tới hàng chục năm. Nó xảy ra ở mọi độ tuổi, song phổ biến nhất là ở những người ngoài 45. Nhóm có nguy cơ cao là những người hút thuốc lá, bị tăng huyết áp, tăng cholesterol máu, đái tháo đường hoặc trong gia đình có tiền sử bệnh tim mạch. Tuổi càng cao, các mảng xơ vữa động mạch càng nhiều, độ hẹp càng tăng và rất dễ mắc nhiều biến chứng.
Điều đáng lo ngại là trên bề mặt của những mảng xơ vữa hay hình thành những cục máu đông, gọi là huyết khối thành mạch. Chúng có thể vỡ ra thành nhiều mảng, di chuyển từ cổ lên não hoặc đọng lại, lớn dần lên gây thiểu năng tuần hoàn não, tắc mạch, tai biến mạch máu não tạm thời hoặc nhồi máu não.
Người ta nhận thấy khoảng 20-30% số trường hợp nhồi máu não là do xơ vữa động mạch cảnh, và ngược lại, khoảng 1/3 bệnh nhân bị hẹp động mạch cảnh từ 80% trở lên đều mắc tai biến mạch máu não. Trong khi đó, tỷ lệ này ở người hẹp động mạch cảnh dưới 80% là không đến 1%.
Hẹp hoặc tắc các động mạch cảnh dẫn máu đi nuôi não có thể gây thiểu năng tuần hoàn não thể đặc biệt, biểu hiện thông thường nhất dưới dạng tai biến mạch máu não với các triệu chứng như: mù tạm thời, rối loạn vận động (đang cầm đồ vật đột ngột để rơi), rối loạn cảm giác nửa người (cảm giác tê cóng, tê chân tay, da dày cứng lên, kiến bò nhấp nháy trong da), rối loạn ngôn ngữ (nói thiếu từ, nhầm tiếng, rối loạn phát ngôn) hoặc liệt nhẹ nửa người. Sau khi đã bị nhồi máu não, các mảng xơ vữa ở động mạch cảnh vẫn là nguyên nhân gây tiến triển bệnh.
+ Xơ vữa động mạch ngoại biên:
Bệnh động mạch ngoại biên là bệnh thường gặp làm tăng nguy cơ bệnh tật và tử vong. Nguyên nhân là do lắng đọng chất mỡ tại thành mạch gây hẹp và tắc nghẽn các động mạch chính ở chi dưới.
Bệnh động mạch ngoại biên chiếm tỷ lệ 10% ở nhóm tuổi dưới 70. 15-20% ở nhóm tuổi trên 70. Bệnh động mạch ngoại biên không triệu chứng chiếm tỷ lệ lên đến 70% và chỉ 10% trường hợp có triệu chứng đau cách hồi điển hình. Bệnh động mạch ngoại biên gây hạn chế hoạt động chức năng của nhiều bệnh nhân và hầu hết các trường hợp nặng đều có nguy cơ bị đoạn chi.
2. Sự hình thành mảng xơ vữa động mạch
Tất cả các giai đoạn của xơ vữa động mạch - từ lúc bắt đầu đến khi có biến chứng - được coi là phản ứng viêm đối với thương tổn được điều hòa bởi một số cytokine cụ thể. Tổn thương nội mạc được coi là tổn thương cơ bản, có vai trò khởi phát.
Xơ vữa động mạch chủ yếu ảnh hưởng đến một số vùng của cây động mạch. Dòng máu chảy không thành lớp hay chảy xoáy (ví dụ, tại các điểm chi nhánh động mạch) dẫn đến rối loạn chức năng nội mạc và ức chế sản sinh oxit nitric, một chất làm giãn mạch mạnh và có khả năng chống viêm. Dòng máu này cũng kích thích các tế bào nội mạc tạo ra các phân tử bám dính làm triệu tập và gắn các tế bào viêm.
Các yếu tố nguy cơ của xơ vữa động mạch (ví dụ:, rối loạn lipid máu, đái tháo đường, hút thuốc lá, cao huyết áp), các tác động oxy hóa (ví dụ các gốc tự do superoxide), angiotensin II, viêm hoặc nhiễm khuẩn hệ thống cũng ức chế sản xuất nitric oxide, kích thích sản xuất các phân tử bám dính, cytokine tiền viêm, protein hóa hướng động và chất co mạch; cơ chế cụ thể vẫn chưa rõ ràng. Hậu quả chung là tế bào bạch cầu đơn nhân và tế bào T gắn vào nội mạc, di chuyển xuống khoang dưới nội mạc và gây ra đáp ứng viêm tại chỗ.
Bạch cầu đơn nhân khi vào dưới nội mạc sẽ chuyển thành đại thực bào. Lipid trong máu, đặc biệt là lipoprotein cholesterol mật độ thấp (LDL) và rất thấp (VLDL), cũng liên kết với các tế bào nội mạc và bị oxy hóa ở dưới nội mạc. Vệt mỡ là tổn thương điển hình gây ra bởi sự tích lũy các lipid bị oxy hóa và sự chuyển dạng cỉa đại thực bào thành các tế bào bọt chứa lipid ở giai đoạn đầu của xơ vữa động mạch. Màng hồng cầu thoái hóa do vỡ các mạch của mạch và xuất hiện trong mảng xơ vữa có thể là một nguồn quan trọng của lipid bên trong các mảng xơ vữa.
Các đại thực bào giải phóng các cytokine tiền viêm làm huy động tế bào cơ trơn từ lớp giữa và tiếp tục huy động lẫn kích hoạt các đại thực bào khác. NHiều yếu tố khác nhau tham gia kích thích tế bào cơ trơn phân chia và sản sinh lớp chất nền ngoại bào đặc. Hậu quả là một mảng xơ dưới nội mạc với một lớp ảo xơ phủ trên, các tế bào cơ trơn bao bọc mô iên kết và lipid nội/ngoại bào. Một quá trình tương tự như sự hình thành xương gây ra vôi hóa bên trong mảng xơ vữa.
Chi tiết xem thêm tại: >>> Mảng xơ vữa thường gặp ở đâu? - BNC medipharm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét